Bệnh tay chân miệng
Trẻ mắc bệnh tay, chân, miệng thường có các triệu chứng điển hình như nốt hồng ban bóng nước ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, trong miệng gây vết loét miệng, đầu gối, mông, hay nổi rải rác ở những vị trí khác trên cơ thể. Đặc biệt, những bóng nước này khi ấn vào thường không đau, không ngứa kèm theo triệu chứng sốt nhẹ, nôn ói và tiêu chảy...
Không có thuốc ngăn được biến chứng và biến chứng hay không phụ thuộc vào từng trẻ... Do vậy, chăm sóc, điều trị triệu chứng và nhận biết được các dấu hiệu có thể có biến chứng là quan trọng nhất.
Viêm đường hô hấp trên
Các bệnh lý nhiễm trùng đường hô hấp trên bao gồm: cảm cúm, viêm xoang, viêm thanh quản cấp và mạn tính…
- Bệnh cảm cúm: lây lan qua đường hô hấp. Thông thường diễn biến nhẹ, phục hồi sau 2 – 7 ngày. Với các biểu hiện như sốt, đau đầu, đau cơ, mệt mỏi, sổ mũi…Trẻ em, người cao tuổi, người đang mắc các bệnh mạn tính, suy giảm miễn dịch thường dễ cảm nhiễm hơn những người khác.
- Bệnh viêm xoang: viêm xoang có 2 dạng chính là viêm xoang cấp tính và viêm xoang mạn tính. Viêm xoang cấp tính thường xảy ra ở xoang sàng, xoang trán, xoang bướm và viêm đa xoang. Khi bị viêm xoang, người bệnh có dấu hiệu sốt, chảy dịch, nghẹt mũi, không ngửi thấy mùi, đau đầu, có cảm giác chóng mặt hay choáng váng, đau xung quanh vùng mắt theo từng cơn và nhịp mạch đập.
- Viêm thanh quản: viêm thanh quản là bệnh phổ biến ở nhiều đối tượng, cả trẻ em và người lớn. Nguyên nhân do nhiễm lạnh, thay đổi thời tiết, ô nhiễm môi trường. Đối với trẻ nhỏ do trẻ khóc nhiều hoặc nói nhiều kết hợp với các yếu tố virus hoặc vi khuẩn gây bệnh. Khi bị viêm thanh quản, người bệnh bị sốt, khàn tiếng, ho, thở rít, đau họng, nuốt vướng. Có cảm giác ngứa, cay hoặc rát nhẹ vùng thanh quản.
Sốt xuất huyết
Sốt xuất huyết là một bệnh nhiễm virus gây ra triệu chứng đầu tiên là sốt, theo cảnh báo thời gian nguy hiểm nhất của bệnh là từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 7 của bệnh. Hiện chưa có thuốc điều trị đặc hiệu nên sốt xuất huyết chủ yếu là điều trị triệu chứng: sốt cao liên tục, đau đầu, nôn, chảy máu chân răng…
Ngoài biểu hiện lâm sàng các bác sĩ chỉ định xét nghiệm tìm căn nguyên virus Dengue. Các xét nghiệm huyết thanh, xét ngiệm PCR, phân lập virus lấy máu trong giai đoạn sốt sẽ giúp kết quả chính xác và để phân biệt với bệnh sốt do virus khác.
Sởi
Đây là một bệnh truyền nhiễm do virus gây ra rất thường gặp ở trẻ em, nhất là trẻ nhũ nhi vì sức đề kháng của trẻ còn yếu kém. Bệnh xảy ra quanh năm và lây truyền theo đường hô hấp, nên khả năng lây lan rất nhanh theo diện rộng và dễ dàng lan truyền thành dịch.
Sởi lan truyền do dịch tiết mũi họng của người nhiễm bệnh theo không khí thoát ra khi người bệnh ho hoặc hắt hơi. Sự lan truyền từ người bệnh đến người lành có thể xảy ra khi người lành hít phải những giọt không khí có virút sởi sau khi người bệnh xả ra 2 tiếng đồng hồ.
Khi bị nhiễm sởi, sau giai đoạn ủ bệnh kéo dài khoảng 7 ngày - 2 tuần, bệnh nhân sốt cao, xuất hiện dấu hiệu phát ban đặc trưng của sởi, lúc đầu ban nổi ở sau tai, sau đó lan ra mặt, rồi lan dần xuống ngực bụng và lan ra toàn thân. Ngoài ra, trẻ bị mắc sởi thường có một số triệu chứng kèm theo như: chảy nước mũi, ho hay đỏ mắt, đôi khi trẻ bị tiêu chảy vì tình trạng viêm long đường tiêu hóa.
Những lưu ý cần biết khi chăm sóc trẻ bị bệnh truyền nhiễm
Các bậc cha mẹ cần đặc biệt lưu ý cách chăm sóc trẻ dể không mắc các sai lầm đáng tiếc:
- Không phải kiêng tắm.
- Không tự ý chích hoặc làm vỡ mụn nước.
- Nên cho trẻ ăn đồ ăn lỏng, dễ nuốt, chia nhỏ bữa ăn nhiều lần giúp trẻ ăn nhiều hơn.
- Kiêng đồ ăn chua, cay, quá mặn làm trẻ khó chịu thêm. Hướng dẫn trẻ lớn súc miệng bằng nước muối ấm để vệ sinh và giảm đau cho trẻ.
- Nếu trẻ quấy khóc nhiều, kể cả không sốt cha mẹ vẫn cần cho bé uống thuốc giảm đau hạ sốt, thông dụng là Paracetamol liều 15mg/kg, không quá 4 lần/ ngày cách mỗi 4-6h hoặc ibuprofen liều 10 mg/kg, không quá 3 lần/ngày cách mỗi 6-8h.
- Nên cho trẻ đi khám khi có các triệu chứng nặng để được chẩn đoán xác định và hướng dẫn theo dõi.
- Tiêm phòng đầy đủ: vaccine là biện pháp hữu hiệu nhằm phòng ngừa các bệnh truyền nhiễm ở trẻ em, làm giảm tỷ lệ mắc bệnh, giảm nhẹ các biến chứng, giúp bé khỏe mạnh, phát triển thể chất và trí não bình thường.